Tuesday, January 28, 2014

Mặt Trận kiện Báo Chí: Vụ Xử Án Lớn Nhất Hải Ngoại - Phạm Văn Liễu; Trần Củng Sơn

Mặt Trận kiện Báo Chí: Vụ Xử Án Lớn Nhất Hải Ngoại

VỤ MẶT TRẬN KIỆN BÁO CHÍ

Phạm Văn Liễu
(trích Hồi Ký Trả Ta Sông Núi - 3, phát hành 2003 ở Mỹ)

Mời đọc Bài Đọc Thêm: PHẠM VĂN LIỄU: CON NGỰA GIÀ CHƯA BIẾT MỎI by Phạm Trần (2003) ở cuối bài này

Bìa trước Hồi Ký "Trả Ta Sông Núi" 2 by Phạm Văn Liễu

Đầu năm 1994, tôi nhận được điện thoại của anh Vũ Ngự Chiêu, tức nhà văn Nguyên Vũ, giám đốc nhà xuất bản và phát hành Văn Hóa, yêu cầu tôi ra làm chứng cho vụ ba đầu lĩnh Mặt Trận, Hoàng Cơ Định, Nguyễn Xuân Nghĩa và Trần Xuân Ninh kiện nhà văn Nguyên Vũ, giám đốc nhà xuất bản Đa Nguyên, đã cho in và phát hành cuốn hồi ký chính trị Mặt Trận, những sự thực chưa hề được kể của nhà văn Cao Thế Dung năm 1992. Suy nghĩ một lúc, tôi nhận lời, anh Vũ Ngự Chiêu là bạn tôi, tình thân như ruột thịt, Nguyên Vũ hay Chính Đạo là nhà văn có nhiều tác phẩm và bài phân tách chính trị, tôi ưa thích.

Những ngày kế tiếp, tôi nhận được điện thoại của ông Cao Thế Dung, tác giả cuốn hồi ký chính trị Mặt Trận, những bí mật chưa hề tiết lộ về Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh và đặc biệt là tổ chức K 9, cũng yêu cầu tôi ra làm chứng cho vụ ông bị nhóm ba đầu lĩnh Mặt Trận kiện .
Tôi đã nhận lời ra làm chứng cho nhà văn Nguyên Vũ, tôi không chần chừ nhận lời. Ông Cao thế Dung, tôi đã biết từ ngày ở Saigon, qua Hoa Kỳ, ông là chiến hữu trong Mặt Trận. Thêm nữa, ông là nhà văn và nhà báo can đảm, không sợ bạo lực, viết lên những sai trái, nhem nhuốc, gian giảo của Mặt Trận.
Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, chủ báo Văn Nghệ Tiền Phong (VNTP) cũng gọi cho tôi yêu cầu tôi ra làm chứng về vụ ông bị ba người đầu lĩnh Mặt Trận thưa ra tòa, vì báo VNTP đã cho đăng tải những bài viết của Lê Kính Dân “Ai giết vợ chồng ký giả Lê Triết”, Lê Bằng Phong và Chu Tri Lục viết khen tặng và phụ họa bài của Lê kính Dân.
Tôi nhận lời yêu cầu của ông Nguyễn Thanh Hoàng, ông Hoàng với tôi quen biết nhau từ ngày tôi theo học trên trường Võ Bị Dalat năm 1952, và những ngày sau khi ông làm chủ những tờ báo Ngôn Luận, Văn Nghệ Tiền Phong ở Saigon, kể cả thời gian tỵ nạn qua Hoa Kỳ, ông Hoàng với tôi vẫn là bạn có giao hảo tốt.
Ngoài sự quen biết và tình bằng hữu, tôi nhận lời yêu cầu của cả ba người, ra làm chứng là vì chính nghĩa, vì công đạo, vì công lý, tôi không muốn thấy nhóm đầu lĩnh Mặt Trận hiện nay mang tiền bạc phi nghĩa ra, định làm hại ba người trong giới văn bút, báo chí.
Ngày 13 tháng 5 năm 1994, Luật sư Kleven, thầy cãi cho phe nguyên đơn, có Hoàng Cơ Định đi theo đến Austin, Texax, lấy lời khai của tôi, nhân chứng cho phía bị cáo.
Tôi trưng ra những tài liệu chứng minh Hoàng Cơ Định là một con người sảo trá, gian manh, bạo tàn. Trước đó, tôi tra cứu tự điển dịch mấy chữ nhận xét về anh em họ Hoàng Cơ, như bịp bợm, dối trá, lường gạt, phản bội, v.v. . .ra tiếng Anh cho đúng. Tưởng tôi có tài liệu thành văn, luật sư Kleven đòi xem và ghi vào biên bản.
Ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng cho biết đã nhờ một luật sư Mỹ biện hộ, tên là Richard D. Givens ở Redwood City. Nhà văn Nguyên Vũ cho biết đã nhờ được luật sư Nguyễn Tâm có văn phòng tại San Jose, biện hộ, chỉ có ông Cao Thế Dung lấy lý do nghèo nàn, không có tiền thuê mướn luật sư, được tòa cho tự biện hộ.
Phiên tòa chính thức bắt đầu từ ngày 5 tháng 12 năm 1994 tại tòa Thượng Thẩm hạt Santa Clara ngay trung tâm thành phố San José.
Ngày 12 tháng 12 năm 1994, tôi đáp máy bay qua San José, tới phi trường được Nguyên Vũ và cựu chiến hữu Vũ hữu Dũng đã chờ sẵn, đưa tôi về nhà anh Dũng. Chiêu cũng ở đó, sau này có thêm Cao Thế Dung tới. Tội nghiệp anh chị Dũng đã phải thu xếp việc ăn ngủ cho ba chúng tôi, lại phải lo la-de (beer) cho nhà văn Cao Thế Dung.
Nguyên Vũ trình bầy là giai đoạn đầu của phiên tòa hộ. Phiên tòa do ông Thẩm phán Joseph F. Biafore, Jr. điều hợp. Nguyên Vũ cười nói:
- “Anh biết không, việc xét xử vai trò xã hội của các nguyên đơn mới thật quan trọng, vì nó quyết định phần nào kết quả vụ án. Trong các vụ án hộ hay dân sự (civil), luật pháp Mỹ có những điều khoản khác nhau tùy theo “vai trò xã hội” của nguyên đơn . Nếu nguyên đơn là thường dân (private citizen) họ được luật pháp bảo vệ rất kỹ. Nhưng nếu phe nguyên đơn là người của đám đông hay nhân vật cộng đồng (pubic figures), họ phải chấp nhận sự chỉ trích của giới báo chí và dư luận. Ngày 7 tháng 12, 1994, sau nhiều ngày tranh cãi của hai phía luật sư, thẩm phán Biafore phán quyết các nguyên đơn là người của đám đông. Ngược lại, phía bị cáo không được nhắc nhở gì đến vụ án trốn thuế của vợ chồng Hoàng Cơ Định và thuộc hạ. Tiếp đến là việc lựa chọn 12 vị bồi thẩm chính thức và 2 dự khuyết cũng thật gay cấn, phải mất 2, 3 ngày mới xong.”.
Tuy nhiên, Nguyên Vũ khẳng định, thế nào phía bị cáo cũng thắng kiện.
Nguyên Vũ và tôi hàn huyên đủ mọi chuyện về phiên tòa, phe nguyên đơn, phe bị cáo, điểm mạnh, điểm yếu của hai phe. Nguyên Vũ nhấn mạnh về trường hợp Cao Thế Dung. Điểm yếu nhất của ông Dung là không có luật sư, phải tự biện hộ, Anh ngữ giới hạn, phải dùng thông dịch viên. Ông Dung ăn nói lưu loát, nhưng nhiều khi đi quá trớn vì hăng say, tuy nhiên khiêm tốn, nhã nhặn, gây được cảm tình của Bồi thẩm đoàn. Luật sư Nguyễn Hữu Liêm được phe bị cáo mời biện hộ cho ông Dung, nhưng luật sư Liêm chỉ nhận sẽ thủ vai trò “cố vấn”.
Phe nguyên đơn, Hoàng Cơ Định nhất thời tưởng là mạnh. Thái độ kiêu căng, ngạo mạn, mặt trơ, trán bóng, lúc nào cũng vênh lên, cậu ấm con quan, kẻ cả ta đây, tốt nghiệp tiến sĩ từ bên Pháp, lắm tiền nhiều bạc, dù tiền bạc toàn là thứ phi nghĩa, tham lam, gian giảo, làm mất cảm tình của Bồi thẩm đoàn.
Tôi lắng nghe Nguyên Vũ trình bầy, tôi có ý kiến:
- “Ba bị cáo, Cao Thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng và Nguyên Vũ như ba tay chèo trên một con thuyền nhỏ trong cơn sóng gió, không những phải vững tay chèo, không sợ sệt, không rối trí, không nản lòng, mà còn phải liên kết chặt chẽ, chung sức, ba người như một. Nếu có một người nhảy ra khỏi thuyền, thuyền sẽ đắm, cả ba người sẽ đắm theo thuyền. Vậy phải liệu trông nhau, bảo nhau, giúp nhau, bình tĩnh, chịu đựng, trí óc lúc nào cũng giữ cho tỉnh táo, sáng suốt. Anh nghĩ Nguyên Vũ thừa biết những điều anh vừa nói, anh tin vào Nguyên Vũ thừa nghị lực và khả năng để thực hiện việc giữ cho con thuyền khỏi đắm.”.
Tôi cũng có ý kiến về sự thông cảm, kết hợp giữa hai luật sư, Richard Givens và Nguyễn Tâm. Hai vị luật sư, một Mỹ, một Việt, phải hướng dẫn khéo léo các bị đơn, các nhân chứng, cung khai ở tòa, kẻ nâng, người đỡ, né chỗ mạnh, tìm chỗ yếu, chỗ sơ hở của phe nguyên đơn mà khai thác triệt để.
Nói tóm lại, việc thắng bại cho phiên tòa là do ở sự đoàn kết một lòng của ba bị cáo và sư liên kết, phối hợp giữa hai luật sư.
Tôi đề nghị Nguyên Vũ bàn với luật sư Nguyễn Tâm triệu tập một phiên họp đông đủ có mặt cả bị cáo, chứng nhân và luật sư vào ngày chủ nhật ngay tại văn phòng luật sư Tâm, để thông qua những điểm cốt yếu, vai trò của từng người, chiến lược và chiến thuật áp dụng để đi tới toàn thắng. Trong buổi họp, tôi đề nghị, sau mỗi buổi tòa, ba bị cáo tới nhà anh Vũ Hữu Dũng họp, để khai thác những ưu khuyết điểm của từng người phía mình và những ưu khuyết điểm phía nguyên đơn, ngày hôm sau, ra đòn cho thật đúng.
Bên phía nguyên đơn đưa ra hai nhân chứng, An Nguyễn tức Nguyễn Kiển Thiện Ân, hồi còn ở Saigon, làm Thứ Trưởng của chính phủ Nguyễn Văn Lộc (1967-1968), qua Hoa Kỳ làm thông dịch viên các tòa án hạt Santa Clara. Ông Nguyễn Ngọc Bích, khai trước tòa, du học tại Mỹ năm 1956, tốt nghiệp đại học Princeton, về nước làm viện trưởng đại học Mékong từ 1972-1975.
Cá nhân tôi biết ông Bích nhiều, cùng với anh em ông là các ông Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn ngọc Phách, Nguyễn Ngọc Nhạ, v.v. . .Tôi không hiểu tại sao ông Bích lại nhận lời ra làm chứng cho phía nguyên đơn.
Bên bị đơn, thoạt đầu, Nguyễn Thanh Hoàng mời ông Hoàng Xuân Yên, tức ký giả Hoàng Xuyên, nhưng ông Yên từ chối không nhận. Ông Nguyễn Đạt Thịnh từ Hawaii bay qua San José làm nhân chứng theo lời mời của nhà văn Nguyên Vũ, nhưng sau Nguyên Vũ quyết định chỉ đưa ông chủ báo Diều Hâu lên bục nhân chứng nếu cần.
Rốt cuộc, có Vũ Hữu Dũng, cựu trung tá Nguyễn Xuân Phác, (một thời làm chủ báo Dân Tộc, Dân Việt và rồi Người Việt Bắc Cali. Ông là người đầu tiên đã công bố những gian lận, tham tàn của Hoàng Cơ Minh và anh em, giòng họ) và tôi là nhân chứng của phía bị đơn.
Tôi không thể nêu ra đây, trong cuốn sách này, tất cả chi tiết phiên tòa, như cuốn “Một ngày có. . . 26 giờ “, bút ký của Nguyên Vũ về vụ án lịch sử Báo Chí Hạ Đo Ván Mật Trận. . . Kháng Chiến William Nakamura, dầy 300 trang, và cuốn “Mặt Trận kiện Báo Chí”, tường thuật của Trần Củng Sơn diễn tiến từng ngày về phiên tòa Mặt Trận Kiện Báo Chí vào cuối năm 1994, dầy hơn 200 trang, vì đây chỉ là một chương, trong tập 3 cuốn hồi ký Trả Ta Sông Núi khoảng 30 trang giấy. Tôi chỉ viết những chuyện “ái, ố, hỷ, nộ” đã xẩy ra trong phiên tòa.

Người đặc biệt trong số 3 bị đơn, nhà văn Cao Thế Dung đã là một minh tinh sáng chói trong suốt phiên tòa:

1/ Ông Dung đã trình diện trước thẩm phán và các bồi thẩm hình ảnh một nhà văn trên 60 tuổi, nghèo đến độ không có tiền mướn luật sư, kiêm tốn và lịch sự, nhưng đủ can đảm đương đầu với thứ móng vuốt vô hình của bạo lực, gian trá và lươn lẹo, đương đầu với mãnh lực của kim ngân.
2/ Ông Dung nổi bật với hai điểm trong bài diễn văn, ông nói với giọng từ tốn, khiêm cung, nhưng rất đanh thép, cao giọng, khi hai lần chỉ thẳng vào ba nguyên đơn “Mặt Trận là ba người này, ba người này là Mặt Trận.”.
Hay nhất là mỗi lần đến lượt ông được kêu lên trả lời hoặc cung khai, ông bước ra vái ông thẩm phán, vái bồi thẩm đoàn, vái luôn cả các bạn bè, thân hữu ngồi dưới ghế thính giả. Thái độ của ông Dung gây xúc động và cảm tình của bồi thẩm đoàn.
3/ Phía nguyên đơn, luật sư Kleven, dụng tâm đánh mạnh vào điểm nghi ngờ ông Dung không có bằng tiến sĩ (PhD hay được gọi là Doctor) mà dám nói là có.

Ông Dung trả lời về điểm này rất vui, ông nói thưở nhỏ, nhà nghèo, không đủ tiền cho ông đi học, ông phải đi chăn trâu độ nhật, tối về tự học dưới ánh trăng hay ánh lửa bếp. Ông cố học đỗ bằng tiểu học. Luật sư Kleven đánh tiếp:
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết, ông có bằng trung học không?”.
Họ Cao không trả lời thẳng vào câu hỏi, nói:
- “Sau khi tôi đỗ tiểu học, bố mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi phải qua ở nhờ bà cô tôi. Bà bảo tôi, cháu đã có bằng tiểu học, cháu nên cố học lấy bằng thành chung (trung học), cô sẽ cố làm nuôi cháu ăn học. Tôi học trung học ở trường phủ (nhà quê).
Cứ mỗi lần ông nói về việc học hành của ông trong sự nghèo nàn của gia đình, ông lại chỉ vào mặt Hoàng Cơ Định và Hoàng Cơ Long nói :
- “Tôi đâu có được học hành ở những trường to lớn trên thành phố như những người này. Ông cha chúng trước kia làm quan tham nhũng, hối lộ, giúp giặc Pháp dẹp những phong trào kháng chiến, nhiều tiền bạc nuôi chúng ăn học trong sự cao sang, giầu có, trường to, trường tốt.”.
Luật sư Kleven nhiều lần giơ tay “objection !” (phản đối), nhưng quan tòa vẫn cho tiếp tục.
Ông Dung tiếp tục kể :
- “Tôi cố gắng học, đỗ cả hai bằng tú tài. Bà cô tôi bảo, cháu học được lắm, người ta học đỗ cử nhân, cháu nên cố gắng học lấy bằng cử nhân.”.
Nghe lời bà cô, tôi học tiếp cũng trong sự nghèo nàn, chật vật về cuộc sống nương tựa bà cô tôi. Tôi đỗ bằng cử nhân. Ông lại quay về phía anh em họ Hoàng Cơ, nói gay gắt như ở trên. Luật sư Kleven giơ tay “objection”, ông tòa cho tiếp tục. (Tôi nghĩ ông thẩm phán muốn tìm hiểu vấn đề giáo dục của Việt Nam như thế nào, nên mỗi lần luật sư nguyên đơn giơ tay “objection”, ông vẫn tiếp tục cho ông Dung nói tiếp.)
Luật sư Kleven hỏi:
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết, ông có bằng tiến sĩ không?, Trường nào và năm nào?”.
Ông Dung không trả lời thẳng vào câu hỏi, ông nói vòng quanh:
- “Sau khi tôi đậu bằng cử nhân, tôi vừa đi dậy học vừa tiếp tục học lấy tiến sĩ. Tôi đâu có cha ông làm quan, tham nhũng, vơ vét tiền bạc của dân nghèo, thăng quan tiến chức vì làm bầy tôi hữu hiệu cho giặc Pháp xâm chiếm và cai trị nước Việt Nam, để được gửi đi học tận bên Pháp như bọn người này”.
Ông Dung vừa nói vừa chỉ vào Hoàng Cơ Định. Luật sư Kleven giơ tay “objection”, ông tòa vẫn cho ông Dung tiếp tục.
Luật sư Kleven:
- “Ông Dung, ông không trả lời câu hỏi của tôi, chúng tôi muốn biết, ông có bằng tiến sĩ không? Trường nào cấp bằng cho ông ? “.
Họ Cao vòng vo tam quốc, trả lời:
- “Tôi có đậu bằng tiến sĩ, tôi không theo học trường đại học nào ở Hoa Kỳ, tôi cũng không học ở bên Pháp như tên này”, ông lại chỉ vào Hoàng Cơ Định Luật sư Kleven không nén được sự sốt ruột, lên tiếng:
- “Ông Dung (Mr. Dung, đáng lẽ phải kêu ông Dung là Dr. Cao), ông nói, ông có bằng tiến sĩ bên Pháp, ông cho biết trường nào?”.
Ông Dung lại vòng vo trả lời:
- “Tôi học bên Pháp, nhưng tôi không qua Pháp như tên này (lại chỉ vào Hoàng Cơ Định), tôi học par correspondant (hàm thụ). Anh em, thân hữu ngồi dưới ghế thính giả lo quá, không hiểu ông Dung trả lời ra sao. Luật sư Kleven:
- “Ông Dung, tôi chỉ hỏi ông tốt nghiệp tiến sĩ trường nào?”.
Họ Cao trả lời vẫn với giọng ẫm ờ :
- “À, tôi tốt ngiệp tiến sĩ tại một trường ở Paris, trường “Ecole Universelle de Paris “. Vì tôi học hàm thụ, nên nhà trường gửi bằng qua đường bưu điện tới cho tôi. Tôi nhận được bằng, nghĩ đến công ơn của bà cô tôi, đã mất, tôi đem tấm bằng ra mộ bà cô tôi, cúng vái, khấn khứa xong, tôi bật lửa đốt tấm bằng cho cô tôi ở dưới suối vàng biết là tôi đã đậu tiến sĩ.”.
Cả tòa, kể cả ông thẩm phán, các bồi thẩm và thính giả, như coi một cuốn phim hay, nín cười không nổi.
Buổi tối, tôi bàn với Vũ hữu Dũng và Nguyên Vũ, trêu chọc Cao Thế Dung một tí cho vui. Khi chị Dũng dọn cơm ra, tôi yêu cầu chị lấy hai lon la de Budweiser để thưởng ông Dung, bữa nay diễn xuất quá hay ở tòa. Tôi lại nói:
- “Kỳ này về, tôi sẽ làm một cuốn phim bộ, ông Dung thủ vai chính, như một hiệp sĩ, mặc quần áo toàn mầu trắng, đầu chít khăn tang trắng, trên lưng đeo thanh bảo kiếm, tay mặt cầm tấm bằng, vai trái đeo một bị lon Budweiser. Khi ra tới mộ bà cô, hiệp sĩ họ Cao để các thứ đeo trên người xuống trước ngôi mộ, đoạn lấy lửa đốt tấm bằng, miệng khấn vái, hôm nay cháu ra thăm mộ cô, cháu đốt mảnh bằng tiến sĩ, để dưới suối vàng cô biết là cháu đã đỗ bằng tiến sĩ, như lúc sanh tiền cô vẫn mong đợi. Khấn vái xong, Cao tráng sĩ rút thanh kiếm ra khỏi vỏ, múa mấy đường kiếm, vừa múa vừa ca :
- “Ta tráng sĩ họ Cao hề, gặp thời nhiễu nhương hề. Ta không sợ bạo lực hề, ta không sợ mãnh lực kim ngân hề. Ta tráng sĩ họ Cao hề. Quyết dẹp tan bọn gian tà hề. Quét sạch nhiễu nhương trong cộng đồng hề. Cho đồng bào sống yên vui hề.
Múa xong bài kiếm, ca hết bài ca, tráng sĩ họ Cao ngồi xếp vòng tròn trước mộ bà cô, lấy ra một miếng thịt bò khô, mở la de ra nhậu.
Khi uống xong sáu lon la de, tráng sĩ họ Cao lại đeo bảo kiếm trên vai, đứng lên vái mấy vái, rồi lên đường hành hiệp.”.
Vũ Hữu Dũng và Nguyên Vũ vỗ tay tán thưởng, phàn nàn không được đóng chung với Cao Thế Dung trong cuốn phim. Còn họ Cao tuy vui trong bụng, nhưng nhăn mặt lắc đầu nói:
- “Anh Bảy trêu đàn em quá, em khai là ra mộ bà cô đốt bằng là có chủ đích, em muốn bảo chúng nó rằng “bằng cái mả mẹ tụi bay”.
Luật sư Kleven bên nguyên đơn, hết truy ông Cao Thế Dung về bằng cấp không được, ông truy qua là ông Dung có tham gia Mặt Trận hay không? (theo phía nguyên đơn khẳng định với ông là ông Dung chưa bao giờ tham gia Mặt Trận, ông Dung có mặt trong các buổi họp của Ban Chấp Hành TVHN là do ông Tổng vụ Trưởng dẫn đến.)
Một buổi tòa, luật sư Kleven chất vấn :
- “Ông Dung, ông cho chúng tôi biết ông có tham gia Mặt Trận không?”. (lưu ý là luật sư Kleven luôn kêu ông Dung là Mr. Cao, không lần nào ông kêu là Dr. Cao). Ông Dung được anh em căn dặn là khi luật sư hỏi, cứ bình tĩnh suy nghĩ cho kỹ càng rồi hãy trả lời, không nên hấp tấp, vội vàng.
Chúng tôi nghĩ tiếng Anh của ông đủ để nghe biết luật sư chất vấn gì cũng như trả lời, nhưng ông Dung đã yêu cầu được một thông dịch viên giúp. Bà Tô Hà là thông dịch viên hữu thệ được tòa mời tới giúp ông Dung. Khi thấy luật sư Kleven hỏi về việc ông Dung có là thành viên của Mặt Trận hay không, anh em mừng quá, ông Dung chỉ việc xuất trình tờ quyết định của Tổng vụ Trưởng Trần Trung Sơn ký và đóng dấu, cho ông Dung làm Chủ nhiệm Ủy Ban Chính Trị của Tổng vụ hải ngoại là bên nguyên đơn trắng mắt. Không hiểu ông Dung nghe bà Tô Hà dịch sao, ông ngẩn mặt suy nghĩ, và trả lời dõng dạc “không” (no). Anh em ngồi dưới hàng ghế thính giả nhăn mặt, lắc đầu, không hiểu sao ông Dung lại trả lời “không”.
May là đúng lúc đó ông Thẩm phán ra hiệu nghỉ trưa, chiều họp tiếp.
Trong bữa cơm trưa, anh em hỏi ông Dung, ông nghĩ sao, mà lại trả lời “không”.
Ông Dung nhăn nhó nói :
- “Tôi nghĩ họ đặt bẫy tôi, tôi nghe bà thông dịch viên dịch lại, tôi tưởng họ hỏi tôi là tôi có tham gia Mặt Trận Giải Phóng không, (Mặt Trận Giải Phóng do cộng sản Hànội lập ra), vì vậy tôi trả lời không.
Giận quá, tôi nói :
- “Thế tiếng Anh của ông cũng không nghe hiểu là họ hỏi gì sao?.”.
Buổi chiều, ông Dung xin được xuất trình bản quyết định và xin sửa lại cho đúng.
Thế là hai điểm mà luật sư Kleven xoáy vào ông Dung để chứng minh là ông Dung nói dối, man trá trước tòa, nếu như vậy thì cuốn Mặt Trận và những bài viết trên báo VNTP, ông Dung cũng đã dối trá, viết không có chứng cớ, gieo vạ cho ba nguyên đơn. Chỉ cần hạ một ông Dung là kéo theo cả ba bị đơn thua kiện.
Cả hai điểm, ông Dung đều qua được.
Bây giờ, đến lượt những chuyện hỷ, nộ phía nguyên đơn.
Khi luật sư Richard Givens hỏi Hoàng Cơ Định:
Hỏi : Mặt trận có vào sổ bộ (tức đăng ký, register) không?
Đáp : Không !
Hỏi : Mặt trận có giữ sổ sách quyên góp tiền không ?
Đáp : Không !
Hỏi : Mặt trận có đóng thuế không ?
Đáp : Không !
Phản ứng của Bồi thẩm đoàn, một bồi thẩm đoàn hầu như chưa biết gì về Mạt Trận và sinh hoạt cộng đồng Việt Nam, sau mấy câu đối đáp này rõ ràng bất lợi cho Hoàng Cơ Định và phía nguyên đơn.
Ba tiếng trả lời “No” khô gọn, chẳng một chút ngại ngùng, ngượng ngập của Hoàng Cơ Định bộc lộ bản chất con người bạo ngược, tham tàn và sự lường gạt có tính toán của anh em họ Hoàng Cơ.
Một buổi tòa khác, khi luật sư Nguyễn Tâm xin trình tòa chứng liệu (exhibit) một xấp hình, trong đó có một tấm hình chụp mấy ngày sau khi Hoàng Cơ Minh chết ở Hạ Lào hơn 7 năm trước.
Luật sư Tâm từ tốn yêu cầu Hoàng Cơ Định lật tới hình thi hài của ông Minh, cao giọng hỏi:
- “Ông Hoàng Cơ Định, ông có nhận ra ai trong hình đó không?”.
Hoàng Cơ Định chỉ liếc mắt qua tấm hình, thản nhiên đáp:
- “Không”.
Thật là bất nhân, bất nghĩa, táng tận lương tâm, một người vẫn cho mình là con giòng, cháu giống, được nuôi ăn học, đỗ đạt đến cấp tiến sĩ Pháp, nỡ đang tâm không nhìn nhận tấm hình thi hài của chính người anh ruột mình.
Luật sư Tâm không chịu tha, ông hỏi Hoàng Cơ Định về cái chết của Hoàng Cơ Minh :
Định trả lời :
- “Tôi tin rằng anh tôi vẫn còn sống.”.
Nguyên đơn thứ hai, y sĩ Trần xuân Ninh, sinh ngày 4-10-1936 tại Hànội, tốt nghiệp y khoa vào năm 1963. Sau khi miền Nam mất, ông Ninh đi cải tạo 2 năm, qua Hoa-Kỳ năm 1979, tạm cư tại Hayward, Bắc California, hành nghề tại Chicago. Theo ông Ninh, người con trai độc nhất của vợ chồng ông bị chết thảm trên đường vượt biển tìm tự do, lý do đó, ông rất thâm thù cộng sản. Ông gia nhập Mặt Trận năm 1984.
Qua sự hướng dẫn của luật sư Kleven, với lối trình bày lưu loát, hoạt bát, ông Ninh đã tự tạo cho mình hình ảnh một vị y sĩ tận tâm về chức nghiệp, yêu thương đồng bào, nòi gống, quyết tâm lật đổ bạo quyền cộng sản, mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân. Cách diễn xuất của ông Ninh cùng với sự nể vì đối với giới y sĩ, ông Ninh phần nào đã gây được thiện cảm của Bồi thẩm đoàn. Ông Ninh chủ trương chiến dịch chống kinh tài cộng sản và cấm du lịch Việt Nam. Dư luận trên Chicago cho rằng y sĩ Ninh đã cho đàn em đốt nhà một người Việt tên Lâm Tôn chống lại lệnh cấm, đã về thăm quê hương.
Luật sư Givens hỏi :
Hỏi : Ông Ninh, ông biết chuyện gì xẩy ra cho ông Lâm Tôn sau chuyến đi về Việt Nam không?
Đáp : Ông ta bị vợ ly dị.
Hỏi : Ông biết việc có người đốt nhà ông Lâm Tôn không?
Đáp : Tôi chỉ biết nhà ông Lâm Tôn bị cháy.
Luật sư Nguyễn Tâm chất vấn ông Ninh về cái chết của Hoàng Cơ Minh. Bằng chứng của phía bị đơn số 258, tức hồ sơ hình ảnh về Mặt Trận được trao cho ông Ninh. Chỉ vào tấm hình chụp thi hài ông Minh, luật sư Tâm hỏi :
Hỏi : Y sĩ Ninh, xin cho biết ông có nhận ra ai trong tấm hình đó không ?
Đáp : Không.
Hỏi : Theo ông, ông Hoàng Cơ Minh còn sống hay đã chết ?
Đáp : Tôi nghĩ rằng ông Minh còn sống. (ông Ninh không dám quả quyết mà nói tôi nghĩ rằng).
Nguyên đơn thứ ba được mời lên bục nhân chứng là ông Nguyễn Xuân Nghĩa, tức Nguyễn Đông Sơn. Dư luận toàn thể người Việt tỵ nạn cộng sản kết tội ông là nằm vùng cho cộng sản, được gài vào Mặt Trận để phá hoại. Nhiều người còn cho là chính ông Nghĩa đã mật báo cho cộng sản biết đường lối chuyển trại của ông Minh, phục kích để tiêu diệt ông Minh và các kháng chiến quân. Ông Nghĩa đã rời Mặt Trận trước khi xẩy ra vụ án thuế khóa, ông đã cộng tác với cơ quan an ninh của Hoa-Kỳ, nên đã không bị câu lưu cùng với năm đầu lĩnh của Mặt Trãn tại hải ngoại.
Ông Nghĩa giữ thái độ hòa nhã với phía bị đơn.
Dưới sự hướng dẫn của luật sư Kleven, ông Nghĩa khai, sinh ngày 11-11-1944 tại Hànội. Cha là Nguyễn văn Hiếu, kỹ sư công chánh, anh em thúc bá ruột với Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam từ 1986 tới 1991.
Ông Nghĩa tốt nghiệp trường Cao đẳng thương mại tại Paris, với bằng HEC (Hautes Etudes Commerciales).
Ra hải ngoại ông Nghĩa tham gia Mặt Trận từ tháng 6 1984 với chức Vụ Trưởng vụ Tuyên Vận. Luật sư Nguyễn Tâm chất vấn ông Nghĩa về việc tại sao không phải đi cải tạo như các công chức cao cấp khác trong chính quyền miền Nam. Ai là tác giả bài viết ký tên Nguyễn Xuân Nghĩa trên một tạp chí cộng sản chiến dịch chống kinh tài cộng sản và du lịch Việt Nam.
Luật sư Tâm lại xoáy vào việc sống, chết của Hoàng Cơ Minh. Nhìn vào tấm hình Hoàng Cơ Minh một lúc, ông Nghĩa ấp úng nói:
- “Tôi không biết ai trong tấm hình.”.
Trả lời câu hỏi, Hoàng Cơ Minh còn sống hay đã chết, ông Nghĩa đáp:
- “Tôi không biết .” (I don’t know).
Khi luật sư Tâm vặn hỏi, tại sao trước đây ông tuyên bố ông Hoàng Cơ Minh còn sống. Ông Nghĩa đáp:
- “Vì ngày ấy, tôi còn ở trong Mặt Trận.”.
Không biết ông Nghĩa có dụng ý gì khi trả lời như trên. Câu nói này chứng tỏ sự gian dối của các đầu lĩnh Mặt Trận. Sự kiện này khiến Hoàng Cơ Định và Trần Xuân Ninh không dấu được sự bất mãn. Phía bị đơn cũng không che dấu được sự vui mừng, tin tưởng sẽ nắm phần thắng.
Phải nhìn nhận là những nhân chứng phe bị đơn, từ Vũ hữu Dũng, tới tôi và Nguyễn Xuân Phác đã làm tròn trách nhiệm. Nhất là anh Nguyễn Xuân Phác đã nhấn mạnh y sĩ Ninh là con người có hai bộ mặt, y sĩ Ninh giống hệt như y sĩ Jekyll và ông Hyde trong một cuốn phim. Có lúc ông ta rất dễ thương, là một y sĩ tài giỏi. Nhưng có lúc ông ta lạnh lùng, tính toán, cực đoan, có khả năng làm bất cứ gì để đạt mục tiêu.
Ông Phác cũng khai trước tòa, sau những loạt bài chỉ trích Mặt Trận, tòa báo của ông bị đập phá, cá nhân ông bi đe dọa. Với sự hướng dẫn của luật sư Tâm, ông Phác khai thêm là tờ báo Dân Việt của ông phải đóng cửa vì các cơ sở thương mại sợ móng vuốt của Mặt Trận, rút hết quảng cáo.

BẠO LỰC ĐI VÀO TÒA.

Buổi tòa nào cũng có hai ba nhân viên FBI và thám tử Zwemke tới tham dự . Ngày 21 –12- 1994, tòa vẫn họp như thường lệ. Hôm nay, có lẽ Hoàng Cơ Định nghĩ làphía nguyên đơn nắm chắc phần thắng vụ kiện nên động viên đại lực lượng đến tòa để làm áp lực và biểu dương khí thế đấu tranh. Đoàn viên Mặt Trận ngồi kín cả phía bên nguyên đơn, tràn qua cả phía bị đơn.
Phiên tòa buổi sáng vừa tan, Bồi thẩm đoàn còn đang lục tục rời phòng xử, nhân viên FBI và cảnh sát vừa bước ra khỏi hành lang, ông Cao thế Dung rời chỗ ngồi bước về phía tôi. Nhanh như cắt, Đoàn trọng Thê, K 9, chạy lao tới phía tôi đang đứng, dơ tay dí vào ngực tôi, dáng điệu hung bạo và sừng sộ, gằn giọng nói với tôi:
- “Sao anh không mang theo Nguyễn Bích Mạc mà anh mang mấy con dogs này tới đây?
Tôi điềm nhiên, dịu dàng trả lời Thê ngắn gọn, kẻ cả. Trực giác thấy điều gì bất thường, bị đơn Cao Thế Dung nhìn nhanh về phía Hoàng Cơ Định thì bắt gặp đôi mắt đầy căm thù, còn Hoàng Cơ Long đôi mắt long lên sòng sọc.
Vì đây là trong Tòa, tôn trọng luật pháp, tôi kêu cảnh sát can thiệp, Thê, Long bước nhanh ra khỏi phòng xử. Định chối cãi không có ra lệnh. Bà Thụy Giao, chủ báo Xây Dựng đã mô tả rất đầy đủ trên mặt báo về cái trò vũ phu, bạo lực, coi thường pháp luật, của Mặt Trận, đã đặt tên cho họ qua tựa đề “Chứng nào tật ấy.”.
Ngày cuối của phiên tòa kéo dài đằng đẳng 14 ngày. Phía nguyên đơn kéo nhau đến tòa đông, thật đông. Cả hai phía, đơn và bị sẽ đọc bài biện hộ cuối cùng.
Luật sư Givens, Cao thế Dung (tự biện hộ), và luật sư Nguyễn Tâm, lần lượt đọc bài biện hộ cuối cùng. Luật sư Givens khẳng định trên thực tế, cả ba nguyên đơn không có danh thơm gì mà mất, họ chỉ là những kẻ xấu, gây ra đủ mọi tội ác trong cộng đồng người Việt, họ chỉ có xú danh.
Các bị đơn cũng không hề “cẩu thả” hay “ác ý” mà thực sự tin tưởng những điều đã viết hay phổ biến. Cao thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng không hề viết sai sự thực.
Luật sư Givens đòi bên nguyên đơn phải đưa ra bằng chứng, phải chứng minh vì ba bài báo viết sai, cố tình vu oan, phỉ báng, khiến các nguyên đơn bị mất danh tiếng, đau ốm, sầu khổ. Thế nhưng, không những các nguyên đơn không trưng ra được bằng chứng là ba bài báo hoàn toàn sai, là cố tình vu oan, giáng họa làm hại nguyên đơn, cả ba nguyên đơn đâu có đau ốm, sầu khổ, vì không trưng ra được một giấy tờ hay hóa đơn đi khám bác sĩ. Nữ ký giả Thụy Giao tường thuật rất trung thực y như bản văn (transcript) của Tòa.
Ông Cao thế Dung, trong bài biện hộ, có câu nói đi vào lịch sử cộng đồng hải ngoại, “Sự thực là người biện hộ cho tôi, công lý là quan tòa của tôi”. (Truth is my defense, justice is my judge). Ông Dung kết thúc bằng một câu làm cho không khí phòng xử bớt căng thẳng: “Merry Christmas and Happy New Year “.
Bài diễn văn biện hộ của luật sư Nguyễn Tâm rất xuất sắc. Ông ôn tồn trình bày thảm cảnh của cộng đồng người Việt phải sống dưới móng vuốt, áp lực đen của Mặt Trận, như đám mây đen che phủ kín, không thấy ánh mặt Trời. Các bị đơn là những người can đảm đứng lên dùng bút mực xuyên thủng đám mây đen đó.
Ông Tâm mong rằng Bồi thẩm đoàn có một biểu quyết lịch sử, xác định các bị đơn không phạm lỗi gì.
Gần 5 giờ chiều, thẩm phán Biafore yêu cầu các vị Bồi thẩm vào phòng kín. Bản phán quyết (verdict) được thẩm phán Biafore trao cho bà Lục sự.
Bà lục sự cao giọng tuyên đọc:
- “Các bị đơn, Cao thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng và Nguyên Vũ đều được xác định là “không hề có một lời nào sai trái”. (did not make any false statement) về phe nguyên đơn.
Bà lục sự hắng giọng đọc to: “Số phiếu là 11 trên 1.”.

Như vậy, phiên tòa kết thúc với kết quả như mọi người mong đợi, đó là thế tất thắng của công lý, chính nghĩa thắng hung tàn.
Nhưng còn những cái chết đầy nghi vấn của ký giả Đạm Phong ở Houston, của một nhân viên tòa báo VNTP trong vùng Virginia, cuộc ám sát hụt ông Cao Thế Dung ở Maryland, và luật sư Nguyễn văn Chức ở Houston, tiếp là vụ thảm sát vợ chồng ký giả Lê Triết, mà cơ quan an ninh đang ráo riết truy tầm thủ phạm, với đầy đủ bằng chứng rõ rệt, truy tố về hình tội. Dư luận cộng đồng người Việt hải ngoại cầu mong Lưới Trời Lồng Lộng không cho bọn hèn hạ, tham tàn trốn thoát, làm sạch sẽ, quang đãng khí Trời cộng đồng.
Trên máy bay về lại Austin, Texas, tôi nghĩ đến ông Hoàng Cơ Minh, tôi thấy ái ngại, thương tâm.

Mở cuốn 2, Hồi Ký Một Đời Người của cụ Phạm Ngọc Lũy, tôi mang theo để coi lại những điều giữa ông Hoàng Cơ Minh và cụ Lũy, có thể dùng trong phiên tòa, tôi mở đến đoạn cụ Lũy phỏng vấn ông Trần Minh Công, sau sự sụp đổ của Mặt Trận.

Ông Công đã kết luận cuộc phỏng vấn :

1/ Làm việc nước mà đầu óc và lòng dạ không lớn, sẽ không làm được.

2/ Cho dù một tổ chức có to lớn và thành công đến đâu mà lãnh đạo dở cũng sẽ thất bại.

Tôi cho rằng đó là một bài học tốt cho các bạn trẻ sau này. Bài học này cũng đã gây cho tôi nhiều cay đắng và phiền muộn.
Tôi rất thông cảm với ý kiến của anh Trần Minh Công, tôi cám ơn anh Công đã nêu lên những ý kiến xác đáng, thâm tâm tôi cũng nghĩ đúng như anh.

Quay lại chuyện ông Hoàng cơ Minh, cựu phó đề đốc Hải Quân, tôi mường tượng ra một hình ảnh: Ông cựu phó đề đốc đã tạo ra một con tầu ma, con tầu bằng giấy mà những gia đình đặt ở hàng mã, cúng rồi đem đốt. Con tầu ma không bao giờ được hạ ïthủy. Trên con tầu, ông Minh có khoảng 40 - 50 tay chèo, toàn là những thanh niên, trai tráng nhiệt thành. Con tầu ma, khi được những tay chèo hay thủy thủ đoàn khiêng đến một nơi khác, gặp lửa, chiếc tầu bị cháy, hạm trưởng tới thủy thủ đoàn đều bị chết gần hết, ngoài những người nhanh chân nhẩy ra ngoài, nhưng cũng bị phỏng nặng.

“Cửu long giang, chưa qua mà vĩnh biệt
Chốn biên thùy, ấp ủ nỗi lòng đau.”
. . . . . . . . . . .

Phạm Văn Liễu
(Hồi Ký Trả Ta Sông Núi)

=====================

tác giả Trần Củng Sơn (tức nhạc sĩ Trần Chí Phúc) tại buổi ra mắt sách của ông: “Một Thoáng 26 Năm” lúc 2 giờ 30 chiều Chủ Nhật, 17/6/2012, tại Viện Việt Học, CA USA

Phóng Ảnh 4 trang Nguyệt san Sự Thật số 5 tháng 5 năm 1995-by Trần Củng Sơn

+ Để xem các ảnh rõ hơn, xin bạn đọc mở ảnh trong Tab mới (right click and open in new tab) rồi zoom lớn (nhấn tổ hợp phím Ctrl +)
================================




Chương Mười Một: (Phiên Tòa thứ 9) Kết Quả vụ “Mặt Trận Kiện Báo Chí…”: bên nguyên đơn thua kiện vì không đủ yếu tố cáo buộc mạ lỵ với số phiếu 11/1.
Đúng 3 giờ 15 chiều ngày 22-12-1994, bồi thẩm đoàn đưa phán quyết cho Tòa công bố là: “không đủ yếu tố để cáo buộc bên bị đơn mạ lỵ với tỉ lệ 11 – 1 phiếu”. Như vậy là bên nguyên đơn gồm Hoàng cơ Định, Trần Xuân Ninh và Nguyễn xuân Nghĩa đã không chứng minh được là phía bên kia gồm ba ông Cao thế Dung, Nguyễn thanh Hoàng và Vũ ngự Chiêu mạ lỵ mình. Phe Mặt Trận thua kiện nên phải trả tất cả mọi án phí của Tòa.

Ký giả Trần củng Sơn đưa ra những nhận xét tinh tế và trung thực như sau:

“Nhìn mấy cục đoàn viên Mặt Trận nét mặt không vui, lủi thủi kéo nhau ra về sau khi nghe phán quyết của Tòa bảo họ thua kiện, lòng người viết bỗng bùi ngùi. Còn đâu cái cảnh tưng bừng những đêm văn nghệ gây quỹ yểm trợ kháng chiến, cái cảnh hàng chục ngàn người nô nức đón chào Hoàng cơ Minh từ “chiến khu” trở về dự đại hội Chính Nghĩa tại thủ đô Hoa Kỳ năm nào.
Những huyền thoại về Mặt Trận giống như son phấn đẹp đẽ của khuôn mặt cô đào hát trên sân khấu dưới ánh đèn màu mờ ảo, giờ đã gột rửa giữa ban ngày để lộ nguyên hình.

Còn đâu chiến hữu Phan Vụ Quang, chiến hữu Nguyễn đồng Sơn, chiến hữu Trần trung Sơn với cái tên mang đầy vẻ bí mật hào hùng, bây giờ ra trước Tòa để trở thành những nhân chứng tầm thường chỉ trích lẫn nhau, chối quanh chối co sự thật, rồi phải ngồi im để những người cũng rất tầm thường xét xử. Có thể họ biết buồn nhục nhưng đã lỡ lao vào cuộc chơi kiện tụng, có thể họ không cảm thấy vì đang say máu cải vã.
Nhưng chắc chắn có rất nhiều người đang xót xa vì niềm tin đã vỡ vụn, một niềm tin dù chỉ là niềm tin nhưng làm cho cuộc sống bôn ba xứ người đầy ý nghĩa hơn. Người ta cố quên đi một lần lầm lẫn mù quáng bởi khát vọng quang phục quê hương nhưng phiên tòa đã khơi lại nỗi buồn quá khứ. Số tiền hai, ba trăm ngàn đô la mà Mặt Trận đổ vào cuộc chơi kiện tụng này hẳn là những đồng bạc chắt chiu đóng góp của đồng bào hải ngoại từ già tới trẻ hơn mười năm qua cho cái gọi là kháng chiến. sao họ lại có thể phung phí như vậy được nhỉ???
==================

Bài Đọc Thêm: (phần high light do Admin)

PHẠM VĂN LIỄU: CON NGỰA GIÀ CHƯA BIẾT MỎI
Phạm Trần (2003)
Nguồn: (Việt Báo 09/10/2003)

Lời Tác Giả Phạm Trần (2010): 8 năm trước đây, khi Đại tá Phạm Văn Liễu trao cho tôi Cuốn Hồi ký của ông “Trả Ta Sông Núi” có kèm theo lời dặn dò : “ Ông Phạm Trần, biếu ông Cuốn sách để ông xem rồi viết cho vài chữ.”
Tôi băn khoăn không biết phải viết gì vì Đại tá Liễu đã là một Nhân vật của Lịch sử từ Cuộc đảo chính hụt Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1960. Nhưng rồi tôi đã “đáp lễ” ông với những dòng mộc mạc dưới đây.
Sau khi đọc, ông gọi cho tôi từ Houston với lời “cảm ơn người đồng hương” rồi cười sảng khóai như ngày nào.
Bây giờ ông đã ra đi vĩnh viễn ngày 20 tháng 10 (2010), hưởng thọ 83 tuổi. Tôi xin phổ biến lại Bài viết này để tiễn đưa ông với một tấm lòng kính mến của một người cùng quê hương ở hạ lưu sông Hồng miền Bắc Việt Nam.
Ít người Việt miền Nam không biết đến ông Phạm Văn Liễu vì tên ông cứ trôi nổi với thời gian từ khi Thiếu tá Liễu tham gia cuộc đảo chính không thành chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm ngày 11-11-1960.

Bây giờ ở tuổi 75, ông viết hồi ký "Trả Ta Sông Núi", đã in được 2 trong số 3 tập, kể lại đời mình từ khi thanh niên Phạm Văn Liễu đi kháng chiến chống Tây rồi lưu lạc sang Tầu (1946 - 1949) với ẩn danh "Cách mạng" Trần Sơn Nam trước khi trở về Việt Nam tiếp tục cầm quân đánh nhau với Việt Minh.

Đi cùng quân lính vào miền Nam sau Hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước, người sỹ quan trưởng thành Phạm Văn Liễu tiếp tục chỉ huy quân đội chống lại quân Cộng sản. Năm 1955 ông là người đã thành lập Binh chủng Thủy quân Lục chiến của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và là cấp Chỉ huy thứ hai của binh chủng này.

Đến tháng 11-1960, người từng xưng "Thưa Tổng thống, Tôi người Bắc" với Tổng thống Ngô Đình Diệm để bị "từ chối bắt tay" vào thời các Sỹ quan Quân đội hay các chính khách, cấp chỉ huy dân chính phải "Bẩm Cụ, Thưa con", ông Liễu tham gia cuộc đảo chính trong nhóm Trung tá Vương Văn Đông và Đại tá Nguyễn Chánh Thi. Cuộc đảo chính bất thành khiến ông phải lưu vong qua Cao Miên.

Sau cuộc đảo chính lần hai chống chính phủ Ngô Đình Diệm thành công của nhóm Sỹ quan do tướng Dương Văn Minh cầm đầu năm 1963, ông Liễu giã từ cuộc đời lưu vong bên xứ Chùa Tháp trở về Quân đội tiếp tục cầm quân đánh nhau với Cộng sản hoặc đào tạo Quân đội.

Thời chính phủ Phan Quy Quát ông được mời giữ chức Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia từ 1965 đến tháng 5/1966.

Nhưng cuộc đời binh nghiệp và chính trị của "chuyên viên đảo chính" Phạm Văn Liễu , như nhiều người đã gọi ông hay như ông nhìn nhận "đã tham gia nhiều cuộc đảo chính và phản đảo chính", được coi như "bế mạc" từ năm 1969, khi Tổng thống (Trung tướng ) Nguyễn Văn Thiệu, sau thời gian củng cố quyền hành, bổ nhiệm ông giữ chức "ngồi chơi xơi nước" Chỉ huy Trưởng căn cứ huấn luyện Đồng Tâm ở vùng Cửu Long.

Tại đây, có lần ông Liễu bị "ai đó" đầu độc bằng thuốc bỏ vào một bát chè, nhưng thoát chết sau một thời gian dài chữa trị. Ông Liễu nói ông không thể gán cho ai làm việc đó vì ông không nắm trong tay bằng chứng cụ thể nhưng vào lúc bấy giờ, với tính tình bộc trực, ưa nói ngay, nói thẳng và nói thật dù mất lòng của ông Liễu, ai cũng nghi đó là một cuộc "đầu độc" có lý do của những người không ưa hay sợ ông.

Ông Liễu như cá sống trên khô như chim bị nhốt vào lồng không còn toan tính gì được nữa. Vì vậy mà ông đã coi Tổng thống Thịêu là "người có tài củng cố quyền hành chứ không có tài đánh giặc."

Tổng thống Thiệu đã có lần muốn ông đi làm Tỉnh trưởng cho "khuất mắt" nhưng ông Liễu từ chối vì, theo lời ông: "Tôi biết ông Thịêu muốn hủ hoá tôi, đưa tôi vào con đường tham nhũng để bêu xấu tôi."

Và theo lời Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason) thì ông Liễu cũng từ chối lên cấp Tướng,nếu chỉ để "ngồi mát ăn bát vàng" chẳng có quyền hành gì cả. Ông Liễu , vẫn theo Giáo sư Hùng, chỉ muốn làm Tư lệnh Thủy quân Lục Chiến hay Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh là hai đơn vị có thể làm đảo chính nên ông Thịêu không bao giờ đồng ý !

Sau ngày quân Cộng sản miền Bắc chiếm Sài Gòn ngày 30-4-1975, mái đầu "đen - bạc" Phạm Văn Liễu lưu vong lần thứ ba sang Hoa Kỳ để rồi lại rơi vào hệ lụy "kháng chiến không đi tới đâu" với "Mặt trận Quốc gia thống nhất Giải phóng Việt Nam" hay còn được gọi là "Mặt trận Hoàng Cơ Minh", từ năm 1980 .

Giấc mộng làm cách mạng của ông cựu Đại tá Phạm Văn Liễu một lần nữa không thành. Mặt trận Hoàng Cơ Minh Minh mà ông đã góp công xây dựng và lãnh đạo dưới tên "kháng chiến" Trần Trung Sơn từ những ngày còn trong trứng nước đã vỡ ra làm hai mảnh sau thời gian cơm không lành mà canh cũng chẳng ngọt giữa ông và Đề đốc Hoàng Cơ Minh và anh em nhà tướng Minh. Sự bất đồng đưa đến đổ vỡ giữa họ tập trung vào guồng máy được gọi là "tổ chức kinh tài" cho Mặt trận do anh em nhà họ Hoàng và các cộng sự viên thân tín của tướng Minh điều hành.

Những người ly khai quây quần với ông Liễu có cả Cựu Đại tá Cảnh sát Trần Minh Công đã tìm cách lấy lại uy tín "kháng chiến" sau khi Mặt trận tan hàng rã cánh năm 1983 với nhiều tai tiếng "tiền bạc lem nhem" và "kháng chiến bên ngoài Việt Nam". Nhưng ông Liễu cũng đã "sức cùng lực kiệt" không đi thêm được bước nào nữa.

Phe theo Đề đốc Minh tiếp tục con đường được gọi là "dấn thân" nhưng họ cũng đã bị đứt gánh giữa đường, trên đường xâm nhập vào Việt Nam, theo ngả miền Nam nước Lào. Tướng Minh bị thiệt mạng. Một số người khác bị mất tích hay bị bắt trong cuộc đụng độ với quân Cộng sản Lào và Việt Nam ngày 28-8-1987, theo tin của Mặt trận phổ biến ngày 28-7-2001. Sự "giấu tin" tướng Minh tử trận trong suốt 14 năm từ 1987 đến 2001 vẫn chưa được giới Lãnh đạo còn lại của tổ chức giải đáp minh bạch.

Tuy nhiên sự đổ vỡ của phong trào kháng chiến đã làm cho ông Liễu ray rứt khá nhiều vì có nhiều người đã vì tin ông mà ủng hộ hay đi về "khu kháng chiến" với Mặt trận. Mái tóc hoa râm của ông vì vậy mà đã bạc đi nhanh hơn thời gian từ dạo ấy.


Sự "bạc trắng tay không " bây giờ, 20 năm sau, đã mon men xói mòn cuộc đời thất bại nhiều hơn thành công của một Phạm Văn Liễu, chỉ mới biết khóc với thật lòng mình một lần trong đời, theo lời ông kể, là khi ông đứng trước quan tài vợ mình. Bà Liễu ra đi ngày 29-2-1992 để lại cho ông 7 người con vào năm Bà mới 54 tuổi.

Hình ảnh một Sỹ quan oai phong, hùng tráng trong bộ quân phục Thủy quân Lục chiến năm nào của ông Liễu không còn nữa. Nó cũng mất đi hình ảnh thiêng liêng của một chiến sỹ "kháng chiến áo nâu, mũ vải rộng vành và khăn rằn ri quàng cổ " của Phạm Văn Liễu khi ông còn đứng trước đám đông người Việt tị nạn chăm chú nghe ông nói chuyện kháng chiến giải phóng quê hương khỏi ách cai trị của Cộng sản Việt Nam vào những năm 1981 - 1982.

Ngày nay, sau "những cơn đau tinh thần vẫn còn ray rứt của cuộc đời binh nghiệp và chính trị" và sau nhiều cơn bạo bệnh thể xác , ông Liễu không còn đi lại bình thường được nữa. Người bạn gần gũi và thân thiết nhất bây giờ của ông không phải là hàng hà sa số bạn hữu ở khắp bốn phương trời thế giới mà là "chiếc xe lăn" vô tri vô giác ngày đêm đang gắn bó với ông!

Nhưng giọng nói của "ông già 75 tuổi" Phạm Văn Liễu bây giờ vẫn còn là của Đại tá Phạm Văn Liễu trên 40 tuổi khi xưa đứng trước hàng quân hay mỗi khi nói chuyện với các Sỹ quan và nhân viên ngành Cảnh sát VNCH. Giọng ông tuy không còn hùng dũng, sang sảng như ngày còn nắm binh quyền nhưng bộ óc minh mẫn và lối nói chuyện hấp dẫn của Tác giả "Trả Ta Sông Núi" vẫn còn đấy.

Ông Liễu đã chứng minh điều này trong buổi ra mắt hai tập Hồi ký của mình ở Trường Lụât, Đại học George Mason hôm 5-10 (2003) vừa qua. Mặc dù phải bó thân trong chiếc xe lăn chật hẹp nhưng ông đã nói không ngơi nghỉ hơn một tiếng đồng hồ và còn muốn nói nhiều nữa về những diễn biến lịch sử xung quanh lý do tại sao ông viết hồi ký và trả lời những câu hỏi của cử tọa.

Ông Liễu bảo ông viết hồi ký không phải để khoe tên tuổi hay đề cao cá nhân mà để "Viết lại những lỗi lầm đời mình dài theo dòng lịch sử quốc dân làm món quà cho những người bạn trẻ."

Ông viết trong lời mở đầu Tập I:" Cổ nhân dạy:Dẵm lên sương sớm, nhớ tới muà Đông. Biết đâu, những kinh nghịêm máu và nước mắt đời tôi chẳng giúp vài ba bạn trẻ hằng tâm với đất nước nào đó tránh được những vết xe đổ của người đi trước? Đó là tâm nguỵên duy nhất của người viết."

Ông Liễu có được mãn nguyện hay không thì chỉ có thời gian mới trả lời được. Nhưng những vinh nhục của người lính chiến đấu và người lính cách mạng Phạm Văn Liễu từ năm 1945 cho đến bây giờ vẫn còn nguyên đó. Nó bám lấy ông như hình với bóng để cùng lớn lên với những vết nhăn trên khuôn mặt khắc khổ của một người lính dường như chưa bao giờ biết mỏi mệt.

Ông tự ví mình là người "lúc nào cũng chỉ biết đội trời" nhưng ông đã "vá" được gì chưa thì tôi thiết tưởng Tác giả "Trả Ta Sông Núi" là người biết rõ mình hơn ai hết.

Ông Phạm Văn Liễu có muốn quên đi những vinh nhục của đời mình cũng chẳng dễ gì vì ông là một nhân vật lịch sử. -/-


Phạm Trần
(Oct. 2003)







0 nhận xét:

Post a Comment